THÁNH LỄ (MASSES)THỨ HAI - THỨ SÁU (MONDAY - FRIDAY) 11:00 AM THỨ BẢY (SATURDAY): 8:30 AM, 4:00 PM, 6:00 PM (Không có thánh lễ 4:00pm nếu 3 chương trình không sinh hoạt)CHÚA NHẬT (SUNDAY): 7:30 AM, 9:30 AM, 11:30 PM, 5:00 PMRửa Tội: Sacrament of BaptismTrong Các Thánh Lễ (Tuần thứ 4 trong tháng)In The Masses (4th week of the month).Thứ Bảy (Saturday): 6:00 PMChúa Nhật (Sunday): 9:30 AM, 11:30 AM, 5:00 PM
THÁNH LỄ (MASSES)THỨ HAI - THỨ SÁU (MONDAY - FRIDAY) 11:00 AM THỨ BẢY (SATURDAY): 8:30 AM, 4:00 PM, 6:00 PM (Không có thánh lễ 4:00pm nếu 3 chương trình không sinh hoạt)CHÚA NHẬT (SUNDAY): 7:30 AM, 9:30 AM, 11:30 PM, 5:00 PMRửa Tội: Sacrament of BaptismTrong Các Thánh Lễ (Tuần thứ 4 trong tháng)In The Masses (4th week of the month).Thứ Bảy (Saturday): 6:00 PMChúa Nhật (Sunday): 9:30 AM, 11:30 AM, 5:00 PM
(Suy niệm Ga 17, 11b-19 của Lm. Trầm Phúc)
Bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay là một đoạn ngắn trong lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu sau bữa Tiệc Ly, trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn.
Đọc lại những lời này, chúng ta cảm nghiệm được mối liên hệ sâu xa giữa Chúa Giêsu với Cha Ngài. Chúng ta cũng cảm nghiệm được mối tình đầy ắp giữa Chúa Cha và Chúa Con, khi Ngài đang là người giữa chúng ta. Ngài đưa chúng ta vào giữa tình yêu của Ngài với Chúa Cha. Ngài cho thấy sự sống đầy yêu thương giữa Chúa Cha và Ngài. Tình yêu đã làm cho Ngài và Chúa Cha nên một, và Ngài muốn chúng ta nên một như thế.
Định luật tình yêu chân thật là như thế.
Ước nguyện của Ngài là chúng ta không những được nên một với nhau mà nên một với Chúa Cha. Vì thế, sống hay chết, chúng ta vẫn hiệp thông với Chúa Cha và với nhau.
Các thánh tử đạo là những người đã đạt tới đỉnh cao của tình yêu. Dù thử thách, gian nan hay nhục hình, các ngài vẫn trọn tình với Chúa.
Tử đạo là chết vì yêu, là nên một với Đấng mình yêu trọn vẹn. Các thánh tử đạo đã thực hiện trọn vẹn lời của thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu sự sống hay sự chết…bất cứ một thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Vì thế không có thánh tử đạo nào tỏ ra buồn bã hay chán nản, mà ngược lại, hiên ngang và vui tươi. Cái chết đối với các ngài không phải là một mất mát mà là vinh quang. Các ngài đã nên một với Chúa từ đời này, trong ngục tù, trong khổ nhục và họ chỉ mong được nên một với Chúa của họ trong vinh quang. Vì thế, cái chết chỉ là một cuộc vượt qua.
Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các môn đệ và Ngài đã gìn giữ họ trong tình yêu của Ngài, không để cho ai bị hư mất trừ người đã tự mình chọn lấy sự hư mất.
Cái chết đối với họ cũng là dấu chỉ của tình yêu. Họ sẵn sàng chấp nhận nó trong niềm vui. Đây là điều gây ngạc nhiên cho những người không tin. Tại sao đứng trước khổ hình và cái chết, họ luôn hiên ngang và vui tươi như thế? Họ đi vào cái chết như đi vào một tiệc vui. Làm sao hiểu được niềm vui trong lòng cô dâu và chú rể trong ngày thành hôn?
Phải yêu thực sự mới hiểu được niềm vui của các thánh tử đạo.
Chính Chúa Giêsu là niềm vui bất diệt của các ngài. Chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho họ: “Bây giờ Con đến cùng Cha và Con nói lên những điều này lúc Con còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của Con.” Chúng ta hiểu tại sao cái chết trở nên nhẹ nhàng như thế. Thế gian tưởng họ là những người điên khùng hay cuồng tín. Đối với thế gian, cái chết của họ thật vô lý. Thế gian đâu hiểu được rằng cuộc sống trong trần gian, nếu không có cuộc sống hạnh phúc mai sau, thì mới thực sự là vô nghĩa.
Hơn nữa, người Công giáo có một mối tình sâu đậm và quí báu đến nỗi không bao giờ họ đổi với một cái gì khác, và đối với họ “không có tình yêu nào cao đẹp cho bằng chết cho bạn hữu”. Và họ dám chết cho người yêu duy nhất của họ là Chúa Giêsu. Vì thế họ xem cái chết như một cử chỉ yêu thương tuyệt hảo, cũng như Ngài đã chết cho họ vì yêu thương. Qua khuôn mặt của các ngài, chúng ta nhìn thấy một khuôn mặt khác không thể tả là khuôn mặt của Đấng là Tình Yêu.
Tại sao thế gian khai trừ họ?
Chúa Giêsu nói: “Con đã truyền cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian…” Tại sao họ phải chết? Vì họ không thuộc về thế gian. Họ chính là một cái gai trước mặt thế gian, nếp sống của họ, Thiên Chúa của họ là một lời tố cáo thế gian. Họ sống trong thế gian, như mọi người, cũng lao động để kiếm sống như mọi người, nhưng họ không thuộc về thế gian. Vì họ không chỉ xây dựng một thế giới vật chất mà thôi. Họ sống cho một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa là tất cả. Đối với họ, thế gian chỉ là phương tiện để đạt đến một cuộc sống hạnh phúc vững bền chứ không tạm bợ. Cuộc sống đó chính là Thiên Chúa. Vì thế, họ đã chọn từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống: “Ai không bỏ mình vác thập giá mà theo Ta…”
Họ cũng là những con người yếu đuối, mong manh, cũng ham sống, cũng thích cuộc sống vật chất, nhưng khi cần, họ cũng dám liều mạng, vì họ muốn đáp lại tình yêu của Đấng đã chết và sống lại cho họ và ban cho họ cuộc sống mới mà thế gian không thể hiểu được. Tình yêu đó chính là sức mạnh khiến họ có đủ can đảm chấp nhận tù tội, nhục hình và cái chết đau đớn. Có lẽ giờ này trong vinh quang, các ngài nhìn lại, chắc các ngài cũng ngạc nhiên tại sao mình có thể chịu đựng được những hình khổ như vậy. Vì thật ra ai cũng biết đau đớn, biết buồn sầu lo lắng, nhưng trong lúc đau đớn như thế, có một sức mạnh nào đó đã yểm trợ họ, trong sự yếu đuối mỏng giòn của họ. Họ đã được thánh hiến trong đau khổ như Chúa Giêsu đã được thánh hiến. Thánh hiến tức là hoàn toàn thuộc về Chúa Cha, hoàn toàn phó thác trong tình yêu.
Trong cuộc sống hôm nay của mỗi người chúng ta, Chúa đang chờ đợi chúng ta tử đạo. Tử đạo hôm nay, ngay trong cuộc sống này, đó là yêu thương đến tận cùng. Yêu mến Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như Thầy đã yêu.
Cuộc sống không thương xót chúng ta đâu! Thế gian cũng không nương tay đối với chúng ta đâu! Phải can đảm dấn thân trong cuộc sống hằng ngày và can đảm vượt lên trên tất cả để trở thành những vị anh hùng tử đạo. Chúng ta được gọi trở nên anh hùng. Sống tốt giữa một thế giới đầy gian ác là một cuộc tử đạo đau đớn chứ không dễ dàng. Yêu thương giữa hận thù tranh chấp cũng là một nếp sống anh hùng. Chúa đang mong chờ những chiến sĩ can đảm như thế. Chúa đang chờ đợi những chứng nhân đáng tin cậy trong một thế giới mà Ngài trở thành cớ vấp phạm.
Chúa Giêsu không xin Cha đem chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng chỉ xin cho chúng ta khỏi ác thần mà thôi. Phải, chúng ta luôn chiến đấu không phải với con người có xác như chúng ta mà là với thần linh, như thánh Phaolô đã nói. Chỉ xin cho chúng ta can đảm đến cùng, làm chứng nhân đến cùng mà thôi. Chúng ta được nuôi dưỡng bằng một thứ của ăn mà thế gian không bao giờ biết, đó là thịt máu Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta và đã đi trước chúng ta trong một cuộc tử đạo ghê gớm nhất. Nhưng Ngài vẫn bảo chúng ta: “Chúng con hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian”. Thắng thế gian bằng một thứ vũ khí mà thế gian cũng không thể hình dung được: đó là Tình yêu không sứt mẻ hao mòn, tình yêu luôn tự hiến. Chúng ta chỉ có thể thắng thế gian bằng thứ vũ khí đó mà thôi. Thắng thế gian bằng cái chết tin yêu.
Hồi còn nhỏ, lúc học Tiểu học, được đọc truyện các thánh, nhất là các Thánh Tử đạo, biết gương can đảm của các ngài, dám liều mình chịu chết, hi sinh cả mạng sống, tôi rất kính phục. Từ sự kính phục đó, nhìn lại con người của mình, cảm thấy mình hèn kém quá, tôi có ý nghĩ này: Các thánh đáng phục, đáng kính đó, nhưng rõ ràng họ cao cả quá, chắc chắn là mình không làm sao theo nổi, không làm sao bắt chước các ngài được. Vậy là người có đạo, người tin Chúa, mình phải sống làm sao đây? Tôi đã chọn giải pháp trung dung, thôi thì cũng ráng sống tốt, cũng ráng nên thánh, nhưng vừa vừa thôi, để được lên thiên đàng là đủ rồi. Chắc ăn lắm! Đó là nên thánh nửa vời. Mải đến chừng đi chủng viện, qua học thần học, tín lý, tôi mới hiểu câu nói của một vị thánh: không có tình trạng nên thánh nửa vời. Đọc qua lịch sử của các thánh Tử đạo VN, ta sẽ thấy rõ điều đó. Hôm nay mừng kính trọng thể các Thánh Tử đạo VN. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Những nhà truyền giáo đặt chân lên đất nước VN, lối đầu thế kỷ 17 (1638). Vậy mà trong khoảng non 300 năm đầu, lịch sử của Hội thánh VN là một cuộc Tử đạo liên miên kéo dài. Đây là lịch sử của trên 100.000 anh hùng tử đạo, tuy chỉ được tôn phong vẻ vang trên bàn thờ có 117 vị. Đây cũng chính là lịch sử Giáo hội VN được ghi bằng những trang sử oai hùng, được tô điểm những nét vàng son, chói lọi về những cái chết anh hùng của bậc tiền nhân. Chính lời của Chúa Giêsu là sức sống, là niềm tin của họ, nhờ đó họ mới có thể vượt qua được cái chết thường tình: “anh em đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn…” Họ đã lãnh triều thiên tử đạo vì các lẽ như sau:
Cái chết của các vị tử đạo đã được nói trước: Chúa nói: “anh em sẽ bị nộp;bị đánh đập trong hội đường, vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người ghen ghét.” (Mt 10,18.22). “Tôi tớ không hơn chủ; nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” (Gn 15, 20). Ở tại bến cảng Đà Nẵng có một cây thánh giá thật to, rất lâu đời. Không rõ thánh giá này đuợc dựng nên từ đời nào, nhưng rõ ràng nó chính là biểu tượng của người kitô hữu VN. Một vị thừa sai thời Pháp, nhìn cây thánh giá nói: “đất nước này rồi sẽ lắm đau thương.” Đúng vậy! Hội thánh VN đã dựng tượng thánh giá, ở khắp mọi nơi, trước hết qua các thánh tử đạo, đã rải dài từ Bắc xuống Nam; nơi đâu có máu của các ngài đổ xuống là nơi đó thánh giá mọc lên; mọc lên hữu hình không chỉ trong các nhà thờ, tại tư gia, hay trên cổ trên áo, mà nhất là trong tâm hồn của mọi kitô hữu. Họ tôn thờ thánh giá không phải vì cuồng tín, mà vì chính Thầy của mình đã đi qua con đường đó và họ cũng phải đi qua như Thầy mình vậy. Vì thế cái chết của họ đã được báo trước; nhưng họ vẫn thanh thản vui lòng chấp nhận như Thầy mình.
Các ngài đã bền chí, trung kiên trong niềm tin, trong yêu mến: Đừng nói các thánh tử đạo muốn chết, mà không ham sống. Sự sống là quà tặng quí giá mà Thiên Chúa ban cho họ. Họ vẫn ý thức rằng: được sống là một hồng ân cao cả, vì họ cũng là người VN, da vàng máu đỏ như ta. Tuy nhiên, điều hệ trọng của họ chính là phải sống thế nào cho ra kiếp người: câu trả lời của họ, đó chính là sống trong tin yêu và trong tự do. Các ngài đã chọn lựa sống tự do, trong tình yêu chung thủy với Thiên Chúa và anh em; nhưng vua quan lại muốn tách họ ra khỏi Thiên Chúa bằng vũ lực, bằng hình khổ và cả mạng sống của họ nữa. Dù vậy, họ vẫn ý thức Lời Thầy mình nói: “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì..” Họ liều mạng sống đời này, không phải vì cuồng tín, nhưng vì tin vào Chúa Thiên Chúa, Đấng luôn tín trung, không hề lừa dối ai bao giờ….
Bà thánh Inê Đê, thánh nữ tử đạo duy nhất được tôn phong của Hội thánh VN, vì giúp đở, che giấu các vị truyền giáo trong nhà mình tại Phúc Nhạc, mà bà bị bắt, bị tra tấn đánh đập nhiều lần; bà bị kiệt sức và chết trong tù ngày 12. 07. 1841. Lúc trong tù, con cái vào thăm mẹ; chúng thấy áo quần bà đầy vết máu, chúng òa khóc lên. Bà Inê Đê cười, nói: “các con đừng khóc, mẹ đang mặc áo hoa hồng đây”. Nói được câu này, đủ minh chứng bà thánh Đê, đầy ơn Chúa, nên mới can đảm, trung kiên tới cùng như thế…
Lấy máu mình để làm chứng: Khi ta bị đứt tay, trặc chân, lỗ đầu, sứt trán, ta còn cảm thấy đau; chưa kịp uống thuốc giảm đau, ta đã la inh ỏi. Vậy màThánh Tử đạo Marchand Du, bị xử bá đao, nghĩa là bị lóc thịt đủ một trăm miếng. Đầu tiên họ lóc da đầu của ngài kéo ra phía trước để che mặt, rồi tiếp tục chổ khác. Vậy mà nghe nói thánh nhân không rên la; tuy nhiên lóc chưa đủ số, thì ngài đã chết rồi.
Ông bà mình nói: máu chảy ruột mềm, có nghĩa là lúc bị hoạn nạn tâm trạng con người dễ xiêu lòng, thay đổi. Các thánh tử đạo VN cũng là người như ta, cũng da vàng máu đỏ, nhưng sở dĩ các ngài chịu được những tra tấn, chặt đầu, lóc thịt chính vì để minh chứng cho Một Con người: đó là Đức Kitô. Chính vì các ngài tin vào thế giá của Đức Kitô, tin rằng Ngài không bao giờ dối gạt họ, tin vào tình yêu và lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, tin rằng sau cái chết đời này còn một cuộc sống vĩnh cữu đáng quí hơn nhiều, đáng đổi lấy hơn sự sống đời này, tin rằng họ hoàn toàn không ảo tưởng, vì chính Đức Kitô cũng đã chết cho họ, để họ cũng được sống lại với Ngài. Rõ ràng họ không chết cho một lý tưởng, mà là chết cho một con người, đó là Đức Kitô, chết cho Hội thánh Chúa.
b/. Gợi ý sống và chia sẻ: Hôm nay chúng con xin dâng lên các thánh TĐ.VN hai nén hương: một nén là để ca tụng, thán phục các ngài, những tấm guơng sáng chói đời đời cho hậu thế soi chung. Một nén khác: để khẩn cầu các ngài phù trợ chúng con nhiều ơn Chúa, trên đường trần gian hôm nay, đầy cạm bẩy, đầy trắc trở, giúp chúng con vượt qua mọi thử thách trên đời, hầu như không thể vượt qua. Amen.
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt Nam, cùng với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.